Nhạc cụ dân tộc là một trong những từ khoá được search nhiều nhất trên google về chủ đề nhạc cụ dân tộc. Trong bài viết này daydan.vn sẽ viết bài về Tổng hợp 8 nhạc cụ dân tộc Việt Nam.
Mục lục
Đàn bầu
Đàn bầu hay Độc huyền cầm là một loại đàn dây của người Việt. Đàn bầu được chia sử dụng hai loại là: đàn thân tre và đàn hộp gỗ. Đàn chỉ có một dây, có chiều dài chạy suốt thân đàn. Dây đàn được làm bằng tơ tằm, về sau thay bằng dây sắt, cần đàn ngày xưa được làm bằng tre, nay thường được thay thế bằng sừng trâu.
Bầu đàn làn bằng vỏ quả bầu nậm khô hoặc gỗ tiện ảnh nậm bầu. Trục lên dây bằng tre hoặc gỗ, được đặt áp sát vào phía người chơi đàn. Que gẩy đàn được gót bằng giang hoặc song, có đầu nhọn và được làm bông lên. Chính đầu bông xơ này vừa mới tạo cho tiếng đàn ấm hơn. Đàn bầu có mặt thông dụng ở các dàn nhạc cụ truyền thống của Viet Nam.
Bầu đàn làn bằng vỏ quả bầu nậm khô hoặc gỗ tiện ảnh nậm bầu. Trục lên dây bằng tre hoặc gỗ, được đặt áp sát vào phía người chơi đàn. Que gẩy đàn được gót bằng giang hoặc song, có đầu nhọn và được làm bông lên. Chính đầu bông xơ này vừa mới tạo cho tiếng đàn ấm hơn. Đàn bầu có mặt thông dụng ở các dàn nhạc cụ truyền thống của Viet Nam.
Sáo trúc
từ ngày trước đến bây giờ, sáo trúc luôn gắn bó với đời sống kiến thức, tinh thần của người VN. Vật liệu để sử dụng loại nhạc cụ này là trúc hoặc tre có đường kính khoảng 1.5cm và chiều dài 30cm. Thân ống được khoét một lỗ thổi có lưỡi gà, và có 6 hoặc 10 lỗ click.
Sáo trúc đủ sức diễn tả nhiều sắc thái cung bậc cảm xúc với âm vực rộng trên hai quãng tám. Âm sắc tươi tắn, trong sáng gợi nhớ đến khung cảnh đồng quê VN yên bình. Sáo trúc đủ sức độc tấu biểu diễn nhiều bài bản, khó khăn, cũng đủ sức hòa tấu cùng dàn nhạc cổ truyền, giao hưởng, nhạc nhẹ, thính phòng.
Sáo trúc đủ sức diễn tả nhiều sắc thái cung bậc cảm xúc với âm vực rộng trên hai quãng tám. Âm sắc tươi tắn, trong sáng gợi nhớ đến khung cảnh đồng quê VN yên bình. Sáo trúc đủ sức độc tấu biểu diễn nhiều bài bản, khó khăn, cũng đủ sức hòa tấu cùng dàn nhạc cổ truyền, giao hưởng, nhạc nhẹ, thính phòng.
Đàn nhị
Đàn nhị hay đàn cò là một loại đàn thuộc bộ dây, group dẫn bằng cung vĩ. Cấu tạo gồm năm phần: cần đàn, thùng đàn, thủ đàn, ngựa đàn và dây đàn. Đàn nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng 8, âm thanh trong sáng, rạch ròi, mềm mại.
Đàn nhị có kỹ thuật diễn tấu với những ngón vuốt, nhấn, rung khá thông dụng. Đây là nhạc cụ k thể thiếu trong các dàn nhạc như: nhã nhạc, phường bát âm, ban nhạc chầu văn, chèo, tuồng, cải lương.
Đàn nhị có kỹ thuật diễn tấu với những ngón vuốt, nhấn, rung khá thông dụng. Đây là nhạc cụ k thể thiếu trong các dàn nhạc như: nhã nhạc, phường bát âm, ban nhạc chầu văn, chèo, tuồng, cải lương.
Đàn tam thập lục
Đàn tam thập lục có mặt đàn cấu tạo hình thang cân sử dụng bằng gỗ nhẹ và xốp. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng. Cần đàn bên trái có 36 móc để móc dây, cần đàn bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn sử dụng bằng kim khí, que đàn sử dụng bằng hai thanh tre mỏng. Âm vực của tam thập lục khá rộng, khoảng gần 4 bát độ.
Nghệ sĩ chơi đàn sử dụng hai chiếc que tre mảnh gõ lên các dây đàn tạo nên âm thanh. Đàn tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc cho sân khấu chèo, cải lương. Đàn đủ nội lực đệm cho hát, độc tấu và tham gia dàn nhạc dân tộc thống kê.
Nghệ sĩ chơi đàn sử dụng hai chiếc que tre mảnh gõ lên các dây đàn tạo nên âm thanh. Đàn tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc cho sân khấu chèo, cải lương. Đàn đủ nội lực đệm cho hát, độc tấu và tham gia dàn nhạc dân tộc thống kê.
Khèn
Khèn là nhạc cụ thuộc bộ hơi có cấu trúc khá phức tạp, gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau. Một đầu cắm xuyên qua bầu đàn hình bắp chuối làm hộp cộng hưởng. Nhạc cụ này khá quen thuộc với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, H’Mông,… Người Mường thổi khèn cho đệm hát, người H’Mông sử dụng tiếng khèn để giao duyên trai gái.
Khèn H’Mông có 6 ống, khèn Thái có 12 ống được bó thành 2 hàng và gọi là khèn bè. Khèn bè có âm sắc mảnh và giòn, mỗi ống phát ra một âm sắc nhất định. Bên trong ống có lưỡi gà được sử dụng bằng đồng hoặc bạc giát mỏng. Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng khoảng 1.5 quãng 8, có âm kéo dài
Khèn H’Mông có 6 ống, khèn Thái có 12 ống được bó thành 2 hàng và gọi là khèn bè. Khèn bè có âm sắc mảnh và giòn, mỗi ống phát ra một âm sắc nhất định. Bên trong ống có lưỡi gà được sử dụng bằng đồng hoặc bạc giát mỏng. Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng khoảng 1.5 quãng 8, có âm kéo dài
Cồng chiêng
Là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, xuất hiện từ thời kiến thức đồng thau Đông Sơn. Cồng chiêng được đúc bằng hợp kim đồng pha thiếc và chì. Loại có núm gọi là Cồng, không có núm gọi là Chiêng. Cồng, Chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao.
Cồng chiêng có mặt trong âm nhạc của hầu hết các dân tộc Viet Nam. Cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một thứ k thể thiếu trong vòng đời mỗi con người, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là giá trị nghệ thuật đã được khẳng định trong đời sống kiến thức xã hội.
Cồng chiêng có mặt trong âm nhạc của hầu hết các dân tộc Viet Nam. Cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một thứ k thể thiếu trong vòng đời mỗi con người, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là giá trị nghệ thuật đã được khẳng định trong đời sống kiến thức xã hội.
Đàn T’Rưng
Đàn T’Rưng thuộc họ nhạc cụ tự thân vang ở Tây Nguyên. Trong dân gian, đàn chỉ có từ 5 – 7 ống lồ ô, cắt dài ngắn khác nhau. Đàn T’Rưng chuyên nghiệp thì có khoảng 12 – 16 ống xếp thành hàng trên giá đàn. Các ống này được kết vào hai sợi dây chạy song song sử dụng thành câu đàn.
Khi chơi đàn, người xem dùng hai chiếc dùi bọc vải gõ lên các ống. Đàn có âm vực rộng gần 3 quãng 8, đủ sức đánh đồng âm hoặc chồng âm nhưng hai nốt phải cách nhau một quãng 8. Những ống lớn và dài phát ra âm trầm, những ống nhỏ và ngắn phát ra âm cao. Âm sắc của đàn T’Rưng hơi độc, tiếng không vang lớn, vang xa nhưng khá đặc biệt.
Khi chơi đàn, người xem dùng hai chiếc dùi bọc vải gõ lên các ống. Đàn có âm vực rộng gần 3 quãng 8, đủ sức đánh đồng âm hoặc chồng âm nhưng hai nốt phải cách nhau một quãng 8. Những ống lớn và dài phát ra âm trầm, những ống nhỏ và ngắn phát ra âm cao. Âm sắc của đàn T’Rưng hơi độc, tiếng không vang lớn, vang xa nhưng khá đặc biệt.
Đàn đá
Đàn đá là loại nhạc cụ gõ cổ nhất của VN. Mỗi thanh đá có click thước và hình dáng khác nhau, được chế tác bằng phương pháp gõ thô sơ. Đá to, dày cho âm trầm, đá nhỏ, mỏng thì cho âm cao. Vật liệu sử dụng đàn là những loại đá có ở vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Những phiến đá vô tri , vô giác được chế tác thành nhạc cụ thật kỳ diệu. Từ những thanh đá ấy, tiếng của đại ngàn Tây Nguyên còn vang vọng đến ngày nay. Tiếng đàn giống như âm vang trầm hùng của núi rừng, thay cho lời kể, niềm an ủi lúc vui buồn trong cuộc đời.
Những phiến đá vô tri , vô giác được chế tác thành nhạc cụ thật kỳ diệu. Từ những thanh đá ấy, tiếng của đại ngàn Tây Nguyên còn vang vọng đến ngày nay. Tiếng đàn giống như âm vang trầm hùng của núi rừng, thay cho lời kể, niềm an ủi lúc vui buồn trong cuộc đời.